Trang chủ » Luật sư & Cộng đồng » Tranh tụng của luật sư tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

 

Phiên tòa xét xử vụ án hình sự là giai đoạn quan trọng nhất, là trọng tâm của toàn bộ quá trình giải quyết VAHS. Thông qua hoạt  động xét xử, Tòa án xác định bị cáo có phạm tội hay không phạm tội, phạm tội gì, mức độ TNHS và trách nhiệm khác của bị cáo đến đâu…, nhằm phát hiện nhanh chóng, chính xác sự thật khách quan của vụ án và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Toàn bộ các kết quả của hoạt động tố tụng trước đó được sử dụng để HĐXX làm việc tại phiên tòa, trên cơ sở các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, kết quả thẩm vấn công khai và tranh luận tại phiên tòa, HĐXX sẽ ra bản án, quyết định nhằm kết thúc quá trình giải quyết VAHS. Có thể nói, phiên tòa có vai trò đặc biệt quan trọng và mang tính quyết định trong giải quyết VAHS, thực hiện các nhiệm vụ, mục đích tố tụng đặt ra.

Tham gia phiên tòa không chỉ là quyền mà còn là nghĩa vụ của người bào chữa. Để đảm bảo quyền bào chữa của bị cáo tại phiên tòa, pháp luật quy định người bào chữa có nghĩa vụ tham gia phiên tòa, người bào chữa có thể  gửi trước bản bào chữa cho tòa án, nếu người bào chữa vắng mặt thì Tòa án vẫn mở phiên tòa xét xử trừ trường hợp bắt buộc phải có người bào chữa. Trong trường hợp bắt buộc phải có người bào chữa, nếu người bào chữa vắng mặt thì HĐXX sẽ hoãn phiên tòa.

Phiên tòa được bắt đầu từ khi khai mạc phiên tòa và kết thúc khi HĐXX tuyên bản án hoặc ra quyết định đình chỉ vụ án và trải qua các phần là: phần thủ tục bắt đầu phiên tòa, phần thủ tục xét hỏi tại phiên tòa, phần tranh luận tại phiên tòa, nghị án và tuyên án.

Trong phiên tòa, vai trò của luật sư được thể hiện chủ yếu và tập trung nhất tại phần thủ tục bắt đầu phiên tòa, xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa. Phần tranh luận tại phiên tòa là thời điểm thể hiện rõ nét nhất hoạt động tranh tụng của luật sư..

Ở đo, trên cơ sở các quy định của pháp luật về tố tụng hình sự mà luật sư sử dụng, vận dụng các quyền  pháp luật cho phép để thực hiện các công việc như cùng với những người THTT, người tham gia tố tụng khác kiểm tra, đánh giá chứng cứ, đồng thời luật sư đưa ra quan điểm của mình nhằm chứng minh sự vô tội hoặc làm giảm TNHS, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp cho bị cáo. Có thể nói, hơn ở đâu hết, tại phiên tòa, vai trò của luật sư sẽ được phát huy và bảo đảm đầy đủ nhất bằng việc tham gia tố tụng trực tiếp, công khai thông qua việc xét hỏi, tranh luận, phát biểu ý kiến đánh giá chứng cứ, đề xuất ý kiến của mình trước tòa. Kết quả của việc bào chữa cho bị cáo sẽ được ghi nhận ở giai đoạn xét xử tại phiên tòa, vì vậy luật sư cần chuẩn bị thật tốt mọi công việc cho hoạt động tại phiên tòa.

* Hoạt động tranh tụng của luật sư trong phần thủ tục bắt đầu phiên tòa

Mặc dù pháp luật quy định phần thủ tục bắt đầu phiên tòa do những người THTT thực hiện, chưa phải là lúc mà luật sư đối đáp, tranh luận với các bên. Tuy nhiên trong thời gian này luật sư cần phải đặc biệt lưu ý và hết sức tập trung để thực hiện các công việc cần thiết phục vụ cho việc bào chữa. Luật sư cần theo dõi thủ tục tố tụng trong phần bắt đầu phiên tòa có được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật hay không. Luật sư cần lắng nghe xem nội  dung của quyết định đưa vụ án ra xét xử  được Chủ tọa phiên  tòa đọc tại phiên tòa có đúng với nội dung quyết định đưa vụ án ra xét xử mà mình và bị cáo đã được nhận không, trong danh sách những người được triệu tập tham gia phiên tòa có thiếu ai không. Nếu vụ án có nhiều bị cáo mà có bị cáo vắng mặt tại phiên tòa thì luật sư cần cân nhắc đề nghị HĐXX tiếp tục xét xử và tách vụ án đối với bị cáo vắng mặt hay phải hoãn phiên tòa. Trường hợp có người bị hại, người làm chứng, người giám định hay người phiên dịch vắng mặt mà ảnh hưởng đến việc làm rõ sự thật của vụ án thì luật sư cần xem xét đề nghị HĐXX hoãn phiên tòa. Ví dụ, trong giai đoạn điều tra, cơ quan giám định đã thực hiện việc giám định và có kết luận giám định, tuy nhiên có một số vấn đề trong kết luận giám định chưa được làm rõ hoặc còn mâu thuẫn với các tình tiết khác trong vụ án và có thể ảnh hưởng đến việc xác định trách nhiệm của bị cáo thì luật sư cần đề nghị HĐXX triệu tập giám định viên đến phiên tòa để làm rõ những vấn đề đó.

Trong thực tế, có nhiều bị cáo chưa nhận được bản cáo trạng và quyết định đưa vụ án ra xét xử đúng thời hạn pháp luật quy định. Trường hợp này, khi bị cáo có yêu cầu thì luật sư phải đề nghị HĐXX hoãn phiên tòa để bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo. Luật sư cần đưa ra các lý lẽ, dẫn chứng và các căn cứ pháp lý để yêu cầu hoãn phiên tòa, đảm bảo hoạt động tố tụng được thực hiện đúng pháp luật, bảo đảm quyền lợi hợp pháp, chính đáng của bị cáo.

Nếu phát hiện có căn cứ cho rằng KSV hoặc thành viên HĐXX, người giám định, người phiên dịch không vô tư, khách quan trong khi thực hiện nhiệm vụ tại phiên tòa thì luật sư có quyền đề nghị HĐXX xem xét thay đổi  để tránh việc giải quyết vụ án một cách phiến diện, có thể dẫn tới oan, sai, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của bị cáo và những người khác. Trong trường hợp xét thấy không cần thiết phải hoãn phiên tòa mà  có người tham  gia tố tụng đề nghị hoãn phiên tòa thì luật sư cần nêu quan điểm để thuyết  phục HĐXX tiếp tục làm việc.

Việc giải thích các quyền, nghĩa vụ của bị cáo và những người tham  gia tố tụng khác tại phiên tòa cũng rất quan trọng, nó giúp cho những người này biết họ được phép làm gì và có nghĩa vụ như thế nào tại phiên tòa. Nếu HĐXX bỏ qua việc này hoặc giải thích chưa đầy đủ thì luật sư cần đề nghị HĐXX thực hiện cho đúng.

* Hoạt động tranh tụng của luật sư thể hiện trong phần xét hỏi tại phiên tòa

Việc xét hỏi tại phiên tòa thực chất là hoạt động điều tra công khai với sự tham gia của những người THTT và những người tham gia tố tụng, của cả bên buộc tội và bên gỡ tội nhằm kiểm tra các tài liệu, đồ vật thu thập được ở các giai đoạn tố tụng trước đó, thu thập thêm những chứng cứ mới do các bên đưa ra tại phiên tòa nhằm làm sáng tỏ sự thật của vụ án.

Theo quy định thì trình tự xét hỏi tại phiên tòa được thực hiện như  sau:

Chủ tọa phiên tòa hỏi trước rồi đến các Hội thẩm, sau đó đến KSV rồi   mới đến người bào chữa [33, Điều 207]. Khi các thành viên HĐXX  KSV hỏi, luật sư cần chú ý theo dõi, ghi chép lại nội dung các câu hỏi và câu trả lời, đồng thời xác định những vấn đề cần hỏi thêm hoặc cần làm rõ nếu thấy cần thiết. Trong trường hợp thấy việc hỏi của những người THTT có ý áp  đặt hoặc gây áp lực đối với bị  cáo, luật sư cần đề nghị  HĐXX xem xét và   yêu cầu chấm dứt việc hỏi như vậy. Để việc hỏi đạt kết quả cao, phục vụ tốt nhất cho nhiệm vụ bào chữa của mình, trước khi ra phiên tòa, luật sư phải dự kiến kế hoạch xét hỏi. Điều này giúp luật sư hỏi có trọng tâm xác định được những vấn đề cần làm rõ, không bỏ sót, không có những câu hỏi thừa hoặc vô nghĩa, không bị lúng túng trước sự trả lời của người bị hỏi.  Câu hỏi của  luật sư phải làm rõ  được các tình tiết của  vụ án sao cho có  lợi cho bị cáo.   Câu hỏi phải rõ ràng, ngắn gọn, chính xác và không làm cho người được hỏi hiểu theo nhiều nghĩa. Tránh việc đặt câu hỏi quá chung chung, dài dòng, tối nghĩa. Để có kế hoạch xét hỏi tốt, luật sư cần xác định hướng bào chữa: Bào chữa cho bị cáo theo hướng không phạm tội hay bào chữa cho bị cáo theo hướng giảm nhẹ…

Thực tế có nhiều trường hợp, lời khai của bị cáo tại phiên tòa rất khác, thậm chí là trái ngược hoàn toàn với lời khai của họ tại CQĐT. Trong trường hợp này, luật sư cần thận trọng trong việc hỏi bị cáo để làm rõ nguyên nhân   có sự khác nhau này. Thông thường, lý do được bị cáo đưa ra cho việc khai khác nhau này là do bị ép cung, mớm cung, dùng nhục hình. Nếu thấy lời khai của bị cáo có căn cứ, luật sư cần đặc biệt lưu ý HĐXX về những tình tiết này và đề nghị HĐXX chỉ sử dụng những lời khai, những tình tiết, chứng cứ được thu thập công khai tại phiên tòa để làm căn cứ ra phán quyết, vì lời khai của bị cáo ở giai đoạn điều tra được thu thập một cách bất hợp pháp, vi phạm quy định tại Điều 63 BLTTHS năm 2003 nên không thể dùng làm chứng cứ. Người bào chữa cần nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án, chỉ ra những mâu thuẫn trong lời khai của bị cáo, người bị hại, người làm chứng… chứng minh sự thiếu khách quan, không trung thực trong các lời khai gian dối, chứng cứ bịa đặt để tìm ra sự thật của vụ án chứ không nên chỉ dựa vào lời phản cung của bị cáo trước tòa cho rằng mình bị ép cung, bức cung, bởi chứng cứ để chứng minh có hành vi bức cung, nhục hình trong thời gian tạm giam là thường khó có chứng cứ.

Việc hỏi tại phiên tòa của luật sư rất quan trọng, nhưng trên thực tế luật sư thường bị hạn chế quyền này. Luật sư được hỏi sau cùng nên không tránh khỏi những câu hỏi lặp lại về mặt nội dung, bản chất, tuy nhiên cách hỏi của luật sư với vai trò là người bào chữa là nhằm tìm ra bản chất vấn đề, đấu tranh để làm rõ lời khai của bị cáo và những người có mặt tại phiên tòa nhằm chứng minh sự vô tội hoặc các tình tiết làm giảm nhẹ TNHS của bị cáo thì sẽ khác với cách hỏi mà KSV, thành viên HĐXX đưa ra, hoặc có khi có những vấn đề đã được HĐXX hoặc KSV hỏi rồi nhưng chưa làm rõ vấn đề, khi luật sư hỏi  lại thường bị HĐXX ngắt lời với lý do hỏi rồi không hỏi lại. Trong trường hợp luật sư bị Hội đồng xét xử ngắt lời, nhắc nhở vì cho rằng nội dung câu hỏi trùng lặp hoặc câu hỏi về các tình tiết không liên quan với vụ án thì luật sư phải có đối đáp, giải thích và đưa ra những câu hỏi rõ nét hơn, đi vào những nội dung quan trọng để xác định rõ sự thật khách quan của vụ án, mang ý nghĩa cho việc bào chữa, chuẩn bị những căn cứ cho phần tranh luận và đưa ra luận điểm bào chữa của mình.

Khi được HĐXX cho phép hỏi, luật sư cần đặt  những câu hỏi ngắn  gọi, tập trung vào những vấn đề quan trọng của vụ án nhưng chưa được làm  rõ. Luật sư phải có cách hỏi phù hợp để câu trả lời của người được hỏi sẽ có lợi nhất cho bị cáo được mình bảo vệ. Nếu bào chữa cho bị cáo theo hướng không phạm tội, luật sư cần đặt câu hỏi để làm rõ sự vô lý, mâu thuẫn của các chứng cứ buộc tội để bác bỏ chúng; làm rõ không có sự việc phạm tội hoặc hành vi của bị cáo không cấu thành tội phạm; làm rõ tính hợp lý, phù hợp của các chứng cứ gỡ tội, chứng cứ ngoại phạm… Nếu bào chữa cho bị cáo theo hướng giảm nhẹ, luật sư cần hỏi để làm rõ nguyên nhân, điều kiện, hoàn cảnh, động cơ, mục đích phạm tội; làm rõ các tình tiết có lợi cho bị cáo như vai trò, mức độ tham gia của bị cáo trong vụ án có đồng phạm; làm rõ các tình tiết giảm nhẹ như ăn năn hối lỗi, tự nguyện khắc phục hậu quả, bồi thường thiệt hại… và làm rõ các đặc điểm về nhân thân của bị cáo.

Tùy theo diễn biến của phiên tòa, luật sư có thể đề nghị HĐXX xem  xét vật chứng, hỏi những người có liên quan để làm rõ những vấn đề chưa rõ ràng; khi cần thiết, luật sư có thể đề nghị xem xét tại chỗ những vật chứng không thể đưa đến phiên tòa. Luật sư có thể đề nghị HĐXX xem xét các chứng cứ mới hoặc công bố các tài liệu có trong hồ sơ vụ án có lợi cho thân chủ của mình khi lời khai của người được xét hỏi tại phiên tòa có mâu thuẫn với lời khai của họ tại CQĐT… Trên cơ sở kết quả của việc hỏi tại phiên tòa, luật sư cần kịp thời điều chỉnh, bổ sung vào bản luận cứ bào chữa những lập luận cần thiết cho phù hợp.  dụ, luật  Nguyễn Công Thành (Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội) kể về việc bào chữa cho bị cáo M.T.Đ vào tháng 11.2015. Trước đó bị cáo M.T.Đ bị VKSND huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội truy tố về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Theo nội dung hồ sơ vụ án thì bị cáo Đ thuê xe ô tô của anh P rồi mang đi cầm cố lấy tiền trả nợ và tiêu sài cá nhân… Tuy nhiên, theo diễn biến lại phiên tòa thể hiện việc Đ cầm cố chiếc xe đó thì người bị hại là anh P cũng biết, vẫn đồng ý để Đ thuê tiếp và trả tiền thuê trong những ngày cầm cố. Trước khi khởi tố vụ án thì Đ đã trả xe và toàn bộ tiền thuê xe cho anh P… Nhiều tình tiết, chứng cứ quan trọng của vụ án được làm sáng tỏ tại vụ án và luật sư Nguyễn Công Thành đã thay đổi quan điểm bào chữa, đề nghị tòa án tuyên bố bị cáo không phạm tội, luật sư Thành cho rằng quan hệ giữa bị cáo và người bị hại vẫn chỉ là quan hệ dân sự, không có hành vi chiếm đoạt tài sản, hành vi của bị cáo không thỏa mãn các dấu hiệu cấu thành tội phạm theo quy định tại Điều 140 BLHS năm 1999. Sau nghị án, tòa án đã quyết định giao hồ sơ cho CQĐT công an huyện Đông Anh điều tra lại vụ án theo thủ tục chung. Đến tháng 3.2016 Cơ quan điều tra công an huyện Đông Anh đã đình chỉ vụ án trên.

  Ngoài việc hỏi những người tham gia tố tụng, trong phần thủ tục xét  hỏi này luật sư còn tham gia vào việc đánh giá kết luận  giám định,  nghiên  cứu vật chứng, tài liệu và khám xét. Trong trường hợp vật chứng không thể đưa đến phiên tòa thì luật sư cần đề nghị HĐXX tiến hành việc xem xét tại nơi để vật chứng. Luật sư cần phải tích cực tham gia vào việc nghiên cứu vật chứng, bởi vật chứng có ý nghĩa to lớn trong việc làm rõ có tội hay không có tội, nguyên nhận phạm tội, những tình tiết giảm nhẹ TNHS cho bị cáo… Khi xem xét vật chứng, luật sư cần chú ý quan tâm đến việc phát hiện, thu thập   vật chứng, mối quan hệ giữa vật chứng với các tình tiết của vụ án cũng như   các điều kiện về thời gian, điều kiện ánh sáng khi xem xét, điều  kiện  bảo  quản vật chứng…

Như vậy, có thể nói, việc xét hỏi tại phiên tòa là hoạt động tố tụng rất quan trọng, qua đó có thể làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án, đồng thời tạo điều kiện cho luật sư đưa ra quan điểm của mình để bảo vệ cho bị  cáo.

* Hoạt động tranh tụng của luật sư trong phần tranh luận tại phiên tòa

Trong quá trình xét xử, việc tranh luận tại phiên tòa là rất quan trọng, trên cơ sở đó những người THTT và người tham gia tố tụng kiểm tra được giá trị chứng minh của các tài liệu buộc tội, gỡ tội, giúp cho quá trình giải quyết  vụ án được chính xác, khách quan, đúng pháp luật. Tranh luận tại phiên tòa thể hiện tập trung nhất hoạt động tranh tụng của luật sư tại phiên tòa hình sự. Việc tranh luận được bắt đầu sau khi kết thúc phần xét hỏi, KSV trình bày lời luận tội, đề nghị kết tội bị cáo theo toàn bộ hay một phần nội dung cáo trạng hoặc kết luận về tội nhẹ hơn… Đây là thời điểm vai trò của luật sư được thể hiện rõ nét nhất bởi "việc xét xử của Tòa án phải căn cứ chủ yếu  vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa,  trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo…" [14].

Những người có quyền tham gia tranh luận tại phiên tòa gồm có KSV, người bào chữa, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền và lợi ích hợp pháp liên quan đến vụ án… Tuy nhiên, trên thực tế, những người tham gia tranh luận tại phiên tòa chủ yếu là KSV, bị cáo và luật sư bào chữa. Trong đó, KSV là bên buộc tội còn bị cáo và luật sư là bên gỡ tội. Khi tham gia tranh luận, luật sư bày tỏ các quan điểm bào chữa của mình để bảo vệ bị cáo. Có thể nói, tranh luận tại phiên tòa chính là phương tiện hữu hiệu để luật sư bảo vệ cho bị cáo thông qua việc phân tích, đưa ra  các lập  luận, lý lẽ sắc bén, có sức thuyết phục. Tranh luận là quyền quan trọng nhất của luật sư tại phiên tòa, là hoạt động sử dụng các kết quả của những bước chuẩn bị trước đó của luật sư để bảo vệ cho bị cáo. Tranh luận cũng là hoạt động giúp cho HĐXX được nghe một cách đầy đủ nhất ý kiến của đại diện VKS và những người tham gia tố tụng khác về việc giải quyết vụ án.

Đây là  lúc thể hiện rõ nhất quyền bình đẳng của các bên buộc tội và bên gỡ tội vì KSV, bị cáo, người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên  quan đến vụ án, người đại diện hợp pháp  của họ, người bảo vệ quyền lợi của đương sự đều  quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, đưa ra yêu cầu và tranh luận dân chủ trước Tòa án; Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện cho họ thực hiện các quyền đó nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án [33, Điều  19].

Thông qua việc tranh luận tại phiên tòa, luật sư đưa ra quan điểm của mình không chỉ bào chữa cho bị cáo mà còn góp phần xác định sự thật của vụ án, giúp các CQTHTT giải quyết nhanh chóng, kịp thời, đúng pháp luật vụ án, góp phần bảo vệ công lý. Tuy nhiên, trên thực tế, có nhiều vị đại diện VKS để bảo vệ cáo trạng của mình là đã truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật nên không thực hiện quyền và nghĩa vụ tranh luận với luật sư. Nhiều trường hợp đại diện VKS chỉ đổi đáp một lần rồi “giữ nguyên quan điểm” không tranh luận với người bào chữa nữa, khi đó luật sư có muốn tranh luận thì cũng không có ai tranh luận lại khiến nhiều tình tiết của vụ án không được làm sáng tỏ. Theo quy định, Chủ tọa phiên tòa có quyền đề nghị KSV phải đáp lại những ý kiến có liên quan đến vụ án của người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác  những ý kiến đó chưa được KSV tranh luận. Tuy nhiên,  BLTTHS chỉ quy định là Chủ tọa có quyền yêu cầu KSV đối đáp lại, nên khi Chủ tọa phiên tòa không yêu cầu thì luật sư cũng không thể thực hiện được quyền này. Vì vậy, pháp luật TTHS nên được sửa đổi theo hướng buộc KSV phải đáp lại những quan điểm, ý kiến của luật sư, bởi đây là trách nhiệm của KSV, trong trường hợp không đáp lại được những ý kiến, quan điểm của luật sư thì  HĐXX ghi nhận ý kiến của luật sư là có cơ sở, cần được xem xét, bởi trong trường hợp những tài liệu, chứng cứ không đủ cơ sở pháp luật để buộc tội thì phải áp dụng có lợi cho bị cáo.

Luật sư tham gia vào việc đánh giá chứng cứ: Một hoạt động quan trọng của luật sư trong phần tranh luận tại phiên tòa là tham gia vào việc đánh giá chứng cứ và sử dụng chứng cứ. Trong TTHS, luật sư có vai trò rất quan trọng trong việc đánh giá và sử dụng chứng cứ.

Tham gia tố tụng với tư cách  là người bào chữa và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp cho bị cáo, luật sư sẽ cùng với thân chủ của mình trở thành một bên trong tố tụng: Bên gỡ tội. Luật sư phải sử dụng tổng hợp những kinh nghiệm nghề nghiệp và kiến thức chuyên môn của mình, trong đó có kiến thức về chứng cứ và đánh giá chứng cứ bác lại những quan điểm đối lập, bảo vệ quan điểm của mình. Đánh giá chứng cứ có vai trò rất quan trọng và có ý nghĩa pháp lý rất lớn đối với  việc lựa chọn các chứng cứ đưa vào sử dụng làm căn cứ buộc tội hay bác bỏ  sự buộc tội trong quá trình tố tụng.

Đánh giá chứng cứ là quá trình hoạt động phân tích của CQTHTT  nhằm xác định giá trị chứng minh của chứng cứ đối với  những vấn đề cần  phải giải quyết trong VAHS [8, tr. 105]. Vấn đề đánh giá chứng cứ rất phức tạp, cùng một chứng cứ, cùng một hồ sơ hoặc cùng một tình tiết nhưng quan điểm đánh giá nhiều khi rất khác nhau... Ví dụ: Trong vụ án đánh chết trộm xảy ra tại Sóc Sơn năm 2012, Hà Nội, tòa án cấp sơ thẩm cho rằng hành vi của bị cáo Nguyễn Đình Yên là đá một cái vào chân nạn nhân là thể hiện cùng ý chí với hai bị cáo khác. Mặc dù cú đá của bị cáo Nguyễn Đình Yên không để lại hậu quả, hậu quả nạn nhân Tuấn chết là do trấn thương sọ não, tụ máu màng cứng, tụt hạch nhân tiểu não, nguyên nhân nhân chết được xác định do Nhâm và Long gây ra nhưng bị cáo Nguyễn Đình Yên cũng tham gia đánh bị hại Tuấn nên Nguyễn Đình Yên phạm tội giết người. Tuy nhiên, tòa phúc thẩm lại nhận định mặc dù Nguyễn Đình Yên có hành vi đá vào chân người bị hại nhưng cú đá không để lại thương tích, không gây ra hậu quả chết người. Nguyễn Đình Yên không biết trước đó người bị hại đã bị đánh như thế nào nên hành vi của Nguyễn Đình Yên không phạm vào tội giết người, chỉ có thể xử lý bị cáo Nguyễn Đình Yên về tội gây rối trật tự công cộng.

Giải oan vụ án đá vào chân một cái bị kết tội giết người - 1

Thông qua việc xét hỏi công khai tại phiên tòa, luật sư đưa ra ý kiến đánh giá của mình về chứng cứ và sự thật khách quan của vụ án để phản biện lại nhưng quan điểm của đại diện VKS giúp cho HĐXX cân nhắc trước khi đưa ra phán quyết. Nếu luật sư phát hiện ra những dấu hiệu không đảm bảo về chứng cứ trong quá trình xét xử, như chưa đủ chứng cứ hoặc chứng cứ yếu thì hoàn toàn có thể đưa ra đề xuất trao đổi với HĐXX hay VKS như đề nghị trả  hồ sơ điều tra bổ sung nếu thấy hồ sơ còn thiếu những chứng cứ quan trọng hoặc thấy có vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng trong quá trình điều tra, thu thập chứng cứ; đề nghị triệu tập người làm chứng đến phiên tòa nếu thấy người làm chứng quan trọng có lời khai buộc tội bị cáo nhưng lời khai này có nhiều điểm chưa rõ ràng hoặc có mâu thuẫn với những chứng cứ khác trong vụ án mà khi vắng mặt người làm chứng tại phiên tòa và sự công bố lời khai của họ có thể ảnh hưởng đến sự thật khách quan của vụ  án…

Nội dung hoạt động tranh luận tại phiên tòa của luật sư bào chữa: Theo quy định, trong trường hợp có người bào chữa thì người bào chữa trình bày lời bào chữa cho bị cáo, sau đó bị cáo có quyền bổ sung ý kiến bào chữa. Khi trình bày lời bào chữa, luật sư cần tập trung vào những hành vi theo tội danh mà VKS truy tố bị cáo và Tòa án đã quyết định đưa ra xét xử. Trường  hợp có căn cứ cho rằng hành vi của bị cáo có dấu hiệu cấu thành tội khác nhẹ  hơn hoặc khung hình phạt nhẹ hơn thì luật sư cần tập trung vào những vấn đề  liên quan và đề nghị HĐXX xem xét. Nếu chưa đủ chứng cứ buộc tội thì luật sư đề nghị đại diện Viện kiểm sát làm rõ, trường hợp không làm rõ được thì luật sư  đề nghị HĐXX không chấp nhận quan điểm buộc tội của VKS.

Khi bào chữa, tranh tụng theo hướng bị cáo không có tội, hành vi không cấu thành tội phạm thì  luật sư cần tập trung vào các chứng cứ chứng minh tình tiết ngoại phạm của bị cáo hoặc chỉ ra những tình tiết về tình trạng không có năng lực TNHS của bị cáo, trường hợp phòng vệ chính đáng hoặc tình thế cấp thiết… hoặc căn cứ vào lý luận cấu thành tội phạm trong luật hình sự để phân tích, lập luận hành vi của bị cáo không thỏa mãn các dấu hiệu cấu thành tội phạm của tội danh đang bị truy tố, chỉ ra mức độ của hành vi chỉ là vi phạm hành chính hoặc vi phạm quan hệ pháp luật dân sự, kinh tế (nếu có).

Nếu bào chữa, tranh tụng theo hướng giảm nhẹ trách nhiệm của bị cáo, luật sư cần chỉ rõ những vấn đề như: bị cáo phạm tội lần đầu, có nhân thân tốt,  trình độ văn hóa thấp, phạm tội do lạc hậu, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, gia đình có công với cách mạng; bị cáo đã tích cực ngăn chặn, làm giảm  bớt tác hại do hành vi của mình gây ra; bị cáo và gia đình đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiết hại, khắc phục hậu quả; phạm tội do vượt qua giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc vượt quá yêu  cầu của tình thế cấp thiết; phạm tội   do bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của người bị hại hoặc người khác gây ra; bị cáo là người già, phụ nữ có thai, là người bị mắc bệnh làm hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;  bị cáo đã tự thú, đầu thú… và những tình tiết khác có ý nghĩa trong việc làm giảm trách nhiệm của bị cáo theo quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999. Khi bị cáo có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên được quy định tại Khoản 1, Điều 46 BLHS năm 1999 thì luật sư có thể đề nghị HĐXX áp dụng Điều 47 BLHS để quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật đã quy định hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn.

Trong quá trình tranh luận, bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác có quyền trình bày  ý kiến về luận tội  của  KSV  và đưa  ra  đề nghị của mình; KSV phải đưa ra những lập luận của mình đối với từ ý kiến; người tham gia tranh luận có quyền đáp lại ý kiến của người khác. Chủ tọa phiên tòa không được hạn chế thời gian tranh luận và có trách nhiệm tạo điều kiện cho những người tham gia tranh luận trình bày hết ý kiến. Tuy nhiên, chủ tọa phiên tòa  cũng có quyền cắt những ý kiến không có liên quan đến vụ án và có quyền đề nghị KSV phải đáp lại những ý kiến c&oac