Trang chủ » Bảo mật thông tin » - Quyết định giám đốc thẩm của TAND tối cao năm 2012 về tranh chấp quyền sử dụng đất

 

......

 

Ngày 17 tháng 2 năm 2012, tại trụ sở Toà án nhân dân tối cao mở phiên toà giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự tranh chấp quyền sử dụng đất giữa các đương sự:

 

Nguyên đơn:

 

1. Ông Nguyễn Phước Hải.

 

2. Bà Võ Thị Ý.

 

3. Chị Nguyễn Yến Hoa.

 

4. Chị Nguyễn Yến Hương.

 

5 . Chị Nguyễn Yến Hồng.

 

6 . Chị Nguyễn Yến Huệ.

 

7 . Anh Nguyễn Phước Hưng.

 

8 . Chị Nguyễn Ngọc Phương.

 

Các nguyên đơn cùng trú tại: ấp Thống nhất, xã Hòa Hưng, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang và cùng ủy quyền cho chị Nguyễn Yến Hương, sinh năm 1962; trú tại số 7/32 ấp Thống Nhất, xã Hoà Hung, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang làm đại diện.

 

Bị đơn:

 

1. Cụ Nguyễn Thị Điều sinh năm 1924.

 

2. Ông Nguyễn Phước Chí sinh năm 1957.

 

3. Ông Nguyễn Việt Hùng sinh năm 1958.

 

Các bị đơn cùng trú tại: ấp Bình, xã Hòa Hưng, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang và cùng ủy quyền cho ông Nguyễn Phước Chí, sinh năm 1957 làm đại diện.

 

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

 

1. Bà Nguyễn Mỹ Phúc sinh năm 1960 .

 

2. Bà Nguyễn Thị Huyền sinh năm 1964.

 

3 . Bà Trần Thị Bảy sinh năm 1955.

 

4. Bà Nguyễn Thị Bảy sinh năm 1959.

 

5 . Anh Nguyễn Phước Tâm sinh năm 1983.

 

Cùng trú tại ấp Bình, xã Hòa Hưng, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang và cùng ủy quyền cho ông Nguyễn Phước Chí, sinh năm 1957 làm đại diện.

 

6. Ông Nguyễn Văn Đoán, sinh năm 1929:

 

7. Ông Lê Đông Nhật, sinh năm 1936 .

 

Trú tại: nhà số 27 A khu 1, đường Gia Long, thị trấn Trà Ôn, huyện Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long.

 

8. Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh khu vực An Hữu, huyện Cái Bè. Do bà Trương Thúy Phượng sinh năm 1961, chức vụ giám đốc làm đại diện.

 

NHẬN THẤY:

 

- Theo đơn khởi kiện ngày 05-6-2002, và các lời khai có trong hồ sơ vụ án thì các nguyên đơn là ông Nguyễn Phưóc Hải, bà Võ Thị Ý, chị Nguyễn Yến Hoa, chị Nguyễn Yến Hương, chị Nguyễn Yến Hồng, chị Nguyễn Yến Huệ, anh  Nguyễn Phước Hưng và chị Nguyễn Ngọc Phương trình bày:

 

Năm 1968 ông Hải, bà Ý có mua của vợ chồng bà Nguyễn Thị Nghiêu, ông Lưu Ngọc Sanh một căn nhà trên diện tích 16.000m2 đất tại ấp Bình, xã Hòa Hưng, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang để ở và canh tác. Năm 1975 ông Hải đã cho cụ Nguyễn Văn Nhơn, cụ Nguyễn Thị Điểu (bố ruột và mẹ kế của ông Hải) mượn nhà đất nêu trên để sử dụng. Năm l990 cụ Điểu tự ý cắt một phần đất chia cho hai con là ông Nguyễn Phuớc Chí và ông Nguyễn Việt Hùng (em cùng cha khác mẹ với ông Hải). Ngày 3.8.1993, cụ Điều lại lập “Giấy ủy quyền” có xác nhận của chính quyền xã giao nhượng lại 6.000m2 đất cho ông Hải tiếp tục canh tác, sử dụng, nhưng khi ông Hải yêu cầu cụ Điểu cắt chia phần đất này thì ông Chí, ông Hùng không đồng ý nên hai bên xảy ra tranh chấp. Nay các nguyên đơn yêu cầu cụ Điểu, ông Chí, ông Hùng trả lại toàn bộ nhà đất đã mượn, gia đình ông sẽ bồi hoàn thành quả lao động trên đất. Nếu cụ Điểu, ông Chí, ông Hùng chỉ giao lại 1/2 diện tích đất thì không đồng ý bồi hoàn thành quả lao động.

 

Các bị đơn cụ Điểu, ông Chí và ông Hùng trình bày:

 

Năm 1968 bà Nguyễn Mỹ Dung (em ông Hải) đưa tiền cho ông Hải mua nhà, đất này của vợ chồng bà Nghiêu và đứng tên ông Hải. Năm 1975, cụ Nhơn bán nhà, đất của cụ Nhơn tại Trà Vinh nên cả gia đình chuyển về nhà đất tranh chấp sinh sống và canh tác. Sau khi cụ Nhơn chết, cụ Điểu và các con tiếp tục sử dụng nhà đất. Năm 1990 cụ Điều cắt một phần đất chia cho ông Chí, ông Hùng sử dụng trồng cây ăn trái và cất nhà ở. Năm 1998 cụ Điểu, ông Chí, ông Hùng đều được cấp GCNQSD đất (cụ Điểu được cấp với diện tích 6.388m2, ông Chí được cấp với diện tích 5.284m2, ông Hùng được cấp với diện tích 3.829m2 đất), do đó các bị đơn không đồng ý trả nhà, đất cho các nguyên đơn.

 

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam - Chi nhánh khu vục An Hữu, huyện cái Bè trình bày: Cụ Điểu và ông Chí có thế chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của cụ Điểu và ông Chí để vay tiền Ngân hàng, nay Ngân hàng đồng ý để cụ Điểu và ông Chí tiếp tục thực hiện hợp đồng.

 

Tại bản án dân sự sơ thẩm số 78/DSST ngày 23-4-2003, Tòa án nhân huyện Cái Bè quyết định:

 

- Buộc hộ cụ Nguyễn Thị Điểu phải hoàn trả 1/2 diện tích đất vườn cụ đã sử dụng cho hộ ông Nguyễn Phước Hải theo giá trị bằng vàng tương ứng là 369 chỉ 7 phân vàng 24k và 4. 452.840 đ tiền trị giá căn nhà.

 

- Buộc hộ ông Nguyễn Phước Chí, do ông Chí làm đại diện phải hoàn trả 1/2 diện tích đất mà hộ ông đã sử dụng cho hộ ông Nguyễn Phước Hải theo giá trị bằng vàng tương ứng là 277 chỉ 05 phân vàng 24k.

 

- Buộc hộ ông Nguyễn Việt Hùng, do ông Hùng làm đại diện phải hoàn trả ½ diện tích đất mà hộ ông đã sử dụng cho hộ ông Nguyễn Phước Hải theo giá trị bằng vàng tương ứng là 171chỉ 02 phân vàng 24k.

 

- Bác yêu cầu đòi lại tiền vay của Chi nhánh Ngân hàng khu vực An Hữu đối với hộ của cụ Điểu là 7. 500. 000đ và hộ ông Chí là 25. 000. 000đ. Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên án phí và thời hạn kháng cáo.

 

Sau khi xét xử sơ thẩm cụ Điểu, ông Chí và ông Hùng kháng cáo.

 

Tại bản an dân sự phúc thẩm số 354/DSPT ngày 29-9-2003, Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang tuyên xử:

 

- Hủy bản án sơ thẩm số 78/DPST ngày 23-4-2003 của Tòa án nhân dân huyện Cái Bè. Giao hồ sơ vụ án về Tòa án nhân dân huyện Cái Bè để điều tra xét xử lại.

 

- Tại bản án dân sự sơ thẩm số 06/DSST ngày 22-10-2004, Tòa án nhân dân huyện Cái Bè quyết định:

 

- Buộc hộ cụ Nguyễn Thị Điểu phải hoàn trả ½ diện tích đất vườn cụ đã sử dụng cho hộ ông Nguyễn Phước Hải theo giá trị bằng vàng tương ứng là 369 chỉ 7 phân vàng 24k và 4. 452. 840 đ tiền trị giá căn nhà.

 

- Buộc hộ ông Nguyễn Phước Chí, do ông Chí làm đại diện phải hoàn trả 1/2 diện tích đất mà hộ ông đã sử dụng cho hộ ông Nguyễn Phước Hải theo giá trị bằng vàng tương ứng và 277 chỉ 05 phân vàng 24k.

 

- Buộc hộ ông Nguyễn Việt Hùng, do ông Hùng làm đại diện phải hoàn trả ½ diện tích đất mà hộ ông đã sử dụng cho hộ ông Nguyễn Phước Hải theo giá trị bằng vàng tương ứng là 171 chỉ 02 phân vàng 24k.

 

- Ghi nhận sự tự nguyện của Chi nhánh Ngân hàng khu vực An Hữu đồng ý cho 02 hộ gồm:

 

- Hộ Nguyễn Thị Điểu, dư nợ còn 5.500.000 tiếp tục thực hiện hợp đồng đến hết hạn vào tháng 6-2005.

 

- Hộ Nguyễn Phước Chí, dư nợ còn lại 20. 000. 000đ tiếp tục thực hiện hợp đồng đến hết hạn vào tháng 8-2012.

 

Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.

 

Ngày 01-11-2004 ông Nguyễn Phước Chí, cụ Điểu, ông Hùng, bà Phúc, bà Huyền có đơn kháng cáo.

 

Tại Quyết định số 113/QĐDS ngày 04-11-2004, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Cái Bè kháng nghị bản án dân sự sơ thẩm số 06/DSST ngày 22-10-2004 của Tòa án nhân dân huyện Cái Bè để xét xử theo thủ tục phúc thẩm. Đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử sửa án sơ thẩm theo hướng bác yêu cầu khởi kiện đòi nhà và đất của ông Hải cùng các đồng nguyên đơn.

 

Tại bản án phúc thẩm số 123/DSPT ngày 23-3-2005, Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang quyết định:

 

Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Nguyễn Phước Chí (đại diện cho các bị đơn).

 

Chấp nhận kháng nghị số 113/QĐ-DS ngày 04-11-2004 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Cái Bè.

 

1.Bác yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Phước Hải cùng các đồng nguyên đơn đòi cụ Điểu ông Chí, ông Hùng trả nhà và quyền sử dụng đất.

 

2. Ghi nhận sự tự nguyện của Chi nhánh Ngân hàng khu vực An Hữu để cho hai hộ tiếp tục thực hiện hợp đồng tín dụng.

 

- Hộ cụ Nguyễn Thị Điểu dư nợ 5.500.000đ tiếp tục thực hiện hợp đồng đến hết hạn vào tháng 6-2005.

 

- Hộ ông Nguyễn Phước Chi, dự nợ 20.000.000đ tiếp tục thực hiện hợp đồng đến hết hạn vào tháng 8-2012.

 

Sau khi xét xử phúc thẩm ông Nguyễn Phước Hải có đơn khiếu nại.

 

Tại Quyết định kháng nghị số 51/2008/DS-KN ngày 21-3-2008, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị bản án số 123/DSPT ngày 23-3-2005 của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang, đề nghị Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm hủy bản án phúc thẩm nêu trên và giữ nguyên bản án sơ thẩm số 06/DSST ngày 22-10-2004 của Tòa án nhân dân huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang.

 

Tại Quyết định giám đốc thẩm số 117/2008/DS-GĐT ngày 16-6-2008, Tòa Dân sự Tòa án nhân dân Tối cao quyết định; hủy bản án dân sự phúc thẩm số 123/DSPT ngày 23-3-2005 của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang về vụ án đòi nhà cho ở nhờ và tranh chấp quyền sử dụng đất giữa nguyên đơn và ông Nguyễn Phước Hải, bà Võ Thị Ý và các anh chị: Nguyễn Yến Hoa, Nguyễn Yến Hương, Nguyễn Yến Hồng, Nguyễn Yến Huệ, Nguyễn Phước Hưng, Nguyễn Ngọc Phương với bị đơn là cụ Nguyễn Thị Điểu, ông Nguyễn Phước Chí, ông Nguyễn Việt Hùng; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Nguyễn Mỹ Phúc, bà Nguyễn Thị Huyền, bà Trần Thị Bảy, bà Nguyễn Thị Bảy, anh Nguyễn Phước Tâm, ông Nguyễn Văn Đoán, ông Lê Đông Nhật và Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam - chi nhánh khu vực An Hữu huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang. Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 06/DSST ngày 22-10-2004 của Tòa án nhân dân huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang.

 

Tại quyết định kháng nghị số 368/2011/KN-DS ngày 06-06-2011, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị quyết định giám đốc thẩm số 117/2008/DS-GĐT ngày 16-6-2008 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm hủy Quyết định giám đốc thẩm số 117/2008/DS-GĐT ngày l6-6-2008 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao; hủy bản án dân sự phúc thẩm số 123/DSPT ngày 23-3-2005 của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang và bản án dân sự sơ thẩm số 06/DSST ngày 22-10-2004 của Tòa án nhân dân huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang giải quyết lại vụ án theo đúng quy định của pháp luật. Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao chấp nhận kháng nghị của Chánh ánTòa án nhân dân tối cao.

 

XÉT THẤY:

 

Nguồn gốc nhà và đất tranh chấp là của ông Nguyễn Phước Hải và vợ là bà Võ Thị Ý mua của cụ Nghiêu, cụ Sanh ngày 07-01-1968, vợ chồng ông Hải đã đúng tên trong trích lục địa bộ. Năm 1975 vợ chồng cô Nhơn, cụ Điểu (cha ruột và mẹ kế của ông Hải) từ Trà Vinh về không có chỗ ở nên ông Hải thỏa thuận cho cụ Nhơn và cụ Điểu mượn đất để khai phá, cải tạo vườn để canh tác. Trong quá trình sử dụng, cụ Điểu, ông Chí, ông Hùng (được cụ Điểu cắt đất chia cho) đứng tên kê khai nên đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (giấy tạm) với tổng diện tích 16.042 m2. Ngày 03-8-1993 cụ Điểu viết "Giấy ủy quyền" với nội dung cụ Điểu chuyển nhượng lại 6.000 m2 đất cho ông Hải tiếp tục canh tác và toàn quyền sử dụng, giấy có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã nhưng do ông Chí và ông Hùng không đồng ý thực hiện thỏa thuận này nên hai bên xảy ra tranh chấp.

 

Các bị đơn cụ Điểu, ông Chí, ông Hùng cho rằng nhà, đất đang tranh chấp là do bà Dung (em gái ông Hải) và ông Đoán (chú ruột ông Hải) đưa tiền cho ông Hải mua để cho cụ Nhơn ở. Ông Đoán có lời khai là ông và bà Dung có mua đất nhưng đã cho ông Hải để ông Hải làm nhà cho cụ Nhơn, bà Dung (em gái ông Hải) đã chết năm 1971, chồng bà Dung là ông Nhật không nắm được sự việc mua bán đó như thế nào. Còn ông Hải không thừa nhận và các bị đơn cũng không xuất trình được chứng cứ chứng minh. Các bị đơn cũng không chứng minh được việc ông Hải đã bán hay tặng, cho nhà đất. Do vậy, co cơ sở khẳng định đất là của ông Hải và bà Ý.

 

Việc tranh chấp diện tích đất nói trên xảy ra từ năm 1995 đến năm 1998 vẫn chưa được giải quyết dứt điểm, nhung năm 1998 cụ Điểu, ông Hùng, ông Chí lại được Uỷ ban nhân dân huyện Cái Bè cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; đất đang có tranh chấp mà Uỷ ban nhân dân huyện vẫn cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không đúng quy định của pháp luật. Năm 1995 ông Hải có đơn khiếu nại Ủy ban nhân dân xã Hòa Hưng có quyết định số 22/QĐ-UB ngày 11-12-1995 bác đơn yêu cầu của ông Hải đòi đất của ông Nguyễn Phước Chí, sau đó Ủy ban nhân dân xã Hòa Hưng có quyết định số 12/QĐ-UB ngày 07-07-1997 hủy bỏ quyết định số 22. Tiếp đó Ủy ban nhân dân huyện Cái Bè có quyết định số 97/QĐ-UB ngày 29-07-1998 về việc giải quyết đơn khiếu nại quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn Phước Hải với cụ Điểu, ông Chí, sau đó Ủy ban nhân dân huyện Cái Bè ra quyết số 40/QĐ-UB ngày 26-4-1999 thu hồi quyết định số 97/QĐ-UB ngày 27-9- 1998 với nội dung việc tranh chấp của các bên đương sự thì khởi kiện đến Tòa án giải quyết theo thẩm quyền. Ông Hải khởi kiện ra tòa án giải quyết là đúng quy định của pháp luật.

 

Việc Tòa án cấp sơ thẩm xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn buộc mỗi hộ gia đình bị đơn phải giao trả là giá trị diện tích đất đang sử dụng cho hộ ông Hải, đồng thời buộc gia đình cụ Điểu phải hoàn trả giá trị còn lại của căn nhà ngói cũ và không buộc hộ gia đình ông Hải đền bù công sức lao động, giá trị cây trồng là có lý có tình, phù hợp với pháp luật.

 

Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm nhận định: qua đo đạc xác minh thực tế đất tranh chấp được chia thành nhiều thửa, mỗi hộ bị đơn sử dụng một phần diện tích nhỏ lẻ, manh mún và đều có xây dựng nhà ở cho nên không thể đo đạc phân chia hoàn trả bằng đất được. Tại bản án số 06/DSST ngày 22-10-2004, Tòa án nhân dân huyện Cái Bè buộc các bị đơn hoàn trả giá trị quyền sử dụng đất bằng vàng là không đúng với hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ngày 10/8/2004. Tại bản số 123/DS-PT ngày 23-3-2005, Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang đã chấp nhận yêu cầu kháng cáo của các bị đơn bác yêu cầu của nguyên đơn là không có căn cứ.

 

Bản án phúc thẩm số 123/DSPT ngày 23-3-2005 của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang bị Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị tại quyết định số 51/2008/DS-KN ngày 21-3-2008.

 

Khi xét xử giám đốc thẩm, đã có các quy định rất cụ thể tại Nghị định số 188/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 của Chính phủ quy định về phương pháp xác định giá đất và khung giá đất các loại và Thông tư số 114/2004/TT-BTC ngày 26/11//2004 của Bộ Tài chính hướng dẫn thục hiện Nghị định số 188/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 của Chính phủ. Tại điểm b, mục 2, phần II của Thông tư có quy định: “ Mức giá cụ thể của từng hạng đất, vị trí đất của các loại đất do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định bằng đồng Việt Nam trên một đơn vị diện tích đất (m2)..”, nhưng quyết định giám đốc thẩm số 117/2008/DS-GĐT ngày l6-6- 2008 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao lại hủy bản phúc thẩm số 123/DSPT ngày 23-3-2005 của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang, giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 06/DSST ngày 22-10-2004 của Tòa án nhân dân huyện Cái Bè là không đúng quy định trên.

 

Tại công văn số 309/CV-THA ngày 30-9-2009 của Thi hành án dân sự huyện Cái Bè kiến nghị xem xét lại quyết định giám đốc thẩm nêu trên với lý do: việc Tòa án tuyên buộc các bị đơn trả giá trị quyền sử dụng đất bằng vàng là không đúng quy định của pháp luật và do biến động của giá vàng theo thời giá tại thời điểm thi hành án, nếu bán toàn bộ số đất tranh chấp cũng không đủ số tiền phải thi hành, dẫn đến không thi hành bản án được.

 

Từ sai lầm trên dẫn đến bản án không thể thi hành được. Đến nay việc giao dịch, chuyển nhượng nhà đất, nhà nước đã cấm giao dịch bằng vàng. Do đó, khi xét xử lại phải định giá lại bằng tiền theo giá thị trường tại thời điểm xét xử sơ thẩm để giải quyết theo quy định của pháp luật.

 

Về tố tụng: Bản án sơ thẩm, bản án giám đốc thẩm đều nhận định nhà đất tranh chấp là của ông Hải, bà Ý nhưng Tòa án các cấp lại đưa các con ông Hải, bà Ý cũng tham gia với tư cách là nguyên đơn, nhưng lại chưa làm rõ quyền lợi của những người này và căn cứ nào để xác định các con của ông Hải, bà Ý cùng là nguyên đơn. Vấn đề này khi giải quyết lại cần làm rõ để xác định cho đúng tư cách tham gia tố tụng của các bên theo đúng quy định của pháp luật.

 

Tại bản án sơ thẩm buộc các hộ (bị đơn) phải hoàn trả giá trị diện tích đất được sử dụng cho ông Nguyễn Phước Hải, nhưng chưa rõ gồm những ai trong hộ. Cần phải làm rõ hộ bao gồm những ai, quyền lợi của từng người như thế nào, từ đó để xác định quyền và nghĩa vụ của họ theo pháp luật.

 

Vì các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 297 và khoản 2 Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự;

 

QUYẾT ĐỊNH:

 

Hủy quyết định giám đốc thẩm số 117/2008/DS-GĐT ngày 16-6-2008 của Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao, bản án dân sự phúc thẩm số 123/DSPT ngày 23-3-2005 của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang, bản án dân sự sơ thẩm số 06/DSST ngày 22-10-2004 của Tòa án nhân dân huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang Ngọc Phương với bị đơn cụ Nguyễn Thị Điểu, ông Nguyễn Phước Chí, ông Nguyễn Việt Hùng.

Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang giải quyết lại theo đúng quy định của pháp luật