Trang chủ » Luật sư & Cộng đồng » Địa vị pháp lý của người bào chữa theo BLTTHS 2003

TRANH TỤNG CỦA LUẬT SƯ TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ SƠ THẨM
 
Ở nước ta, trong những năm gần đây, một trong những vấn đề được tranh luận khá sôi nổi trong quá trình nghiên cứu và lập pháp nhằm cải cách thủ tục tố tụng tư pháp hình sự là vấn đề tranh tụng trong tố tụng hình sự. Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị Ban chấp hành trung ương Đảng “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” đề ra chủ trương “Nâng cao chất lượng công tố của Kiểm sát viên tại phiên tòa, bảo đảm tranh tụng dân chủ với Luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác...”. Tiếp đó, Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” nhấn mạnh việc “Nâng cao chất lượng tranh tụng tại tất cả các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp”. Trong nội dung cải cách tư pháp, tranh tụng đang là một trong những vấn đề thường xuyên được đề cập đến và cũng còn nhiều ý kiến khác nhau. Đặc biệt khi Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị được ban hành thì vấn đề tranh tụng đã thực sự trở thành vấn đề thời sự, không chỉ được tranh luận tại các hội nghị khoa học và các hội nghị về tư pháp mà còn trở thành một yêu cầu bức thiết trong hoạt động nghiên cứu sửa đổi Bộ luật tố tụng hình sự cũng như trong hoạt động thực tiễn.

Vậy thế nào là tranh tụng và vấn đề tranh tụng được đề cập trong Nghị quyết 08-NQ/TW, Nghị quyết 49 -NQ/TW của Bộ Chính trị cần được hiểu như thế nào cho đúng. Có ý kiến cho rằng, cần xác định tranh tụng như một nguyên tắc của tố tụng hình sự Việt Nam, có ý kiến đề nghị chuyển mô hình tố tụng hình sự ở nước ta sang mô hình tố tụng tranh tụng. Tuy nhiên, nhiều ý kiến lại cho rằng, yêu cầu tăng cường tranh tụng được nêu trong Nghị quyết 08-NQ/TW và Nghị quyết 49 -NQ/TW của Bộ Chính trị không nên hiểu là yêu cầu thay đổi hệ thống tố tụng (từ hệ thống tố tụng thẩm vấn sang hệ thống hệ thống tố tụng tranh tụng), mà cần phải đựơc hiểu là yêu cầu cần phải tăng cường khả năng tranh luận dân chủ giữa các chủ thể tiến hành và tham gia tố tụng nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án, bảo đảm cho việc xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Vấn đề tranh tụng không phải là vấn đề mới, nhưng cho đến nay vẫn có nhiều cách hiểu khác nhau. Người ta thường đề cập đến nguyên tắc tranh tụng, kiểu tố tụng tranh tụng, mô hình tranh tụng, hệ thống tranh tụng... lý giải vấn đề tranh tụng từ nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên, chưa có công trình nghiên cứu nào đưa ra một khái niệm cụ thể tranh tụng là gì. Trong một số tài liệu, thường người ta thường đề cập đến hệ thống tranh tụng (Adversarial System). Theo từ gốc tranh tụng trong tiếng Anh là “Adversarial” có nghĩa là đối kháng, đương đầu. Như vậy về bản chất tranh tụng là “cuộc đấu” giữa hai bên trong đó tố tụng hình sự (bên buộc tội và bên bị buộc tội) mà giai đoạn đương đầu tại tòa án (tại phiên tòa) là trung tâm, là chính. Tuy nhiên, không nên hiểu một cách giản đơn tranh tụng là tranh luận, tranh cãi giữa hai bên tại phiên tòa, mà hiểu tranh tụng diễn ra trong một quá trình tố tụng lâu dài, được cả hai bên tiến hành một cách quyết liệt để “cạnh tranh” nhau để “chống” lại nhau. Theo đúng nghĩa, tranh tụng là việc bên buộc tội (công tố) cố gắng để thuyết phục các thành viên Hội đồng xét xử tin rằng bị cáo là người có tội, còn bên bị buộc tội ngược lại, cố gắng và phải sử dụng mọi biện pháp, lý lẽ, căn cứ để biện bạch, bác bỏ những lời buộc tội do bên công tố đưa ra. Và điều đáng lưu ý là trong hệ thống tố tụng tranh tụng gốc, Luật sư của bị cáo có thể bất chấp thủ đoạn để bảo vệ thân chủ bằng mọi giá. Phiên tòa tranh tụng thật sự là một “chiến trường” theo đúng nghĩa của nó khi mà kết cục phiên tòa, chỉ có một bên giành được phần thắng.
(Bị cáo Nguyễn Đình Yên trong vụ án giết người năm 2012 tại Hà Nội)


Á - BLTTHS năm 2003 về địa vị pháp lý của luật sư tại phiên tòa hình sự 

- Quyền và nghĩa vụ của luật sư - Người bào chữa trong tố tụng  hình sự
* Quyền của luật sư - Người bào chữa trong tố tụng hình  sự       
Luật sư tham gia tố tụng trong vụ án hình sự với tư cách là người bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trên cơ sở các quyền và nghĩa vụ được quy định cụ thể tại Bộ luật tố tụng hình sự. Trong đó, quyền của luật sư tham gia tố tụng với tư cách là người bào  chữa trong TTHS được quy định tập trung tại các Điều 56, 58 BLTTHS năm 2003, ngoài ra, còn được quy định rải rác tại các điều khoản khác trong  BLTTHS năm 2003 như quy định về quyền bình đẳng trước Tòa án (Điều 19), các quy định về nghĩa vụ từ chối tham gia với tư cách là người giám định, người phiên dịch (Điều 60, 61), quyền được giao quyết định đưa vụ án ra xét xử (Điều 182), được tiếp xúc với bị cáo tại phiên tòa (Điều 188), quyền gửi trước bản bào chữa cho Tòa án (Điều 190), quyền trình bày nhận xét của mình về các tài liệu được xem xét tại phiên tòa, về nơi đã xảy ra tội phạm hoặc những địa điểm khác có liên quan đến vụ án, về kết luận  giám định  (Điều 213, 214, 215),  được Tòa án giao bản án (Điều 229)…, các quy định trong Luật Luật  sư.
Về thời điểm tham gia bào chữa của luật sư: Luật sư có quyền tham  gia tố tụng để bào chữa từ khi khởi tố bị can hoặc từ khi có quyết định tạm giữ trong trường hợp bắt người phạm tội quả tang, người đang bị truy nã, bắt người trong trường hợp khẩn cấp; trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với  tội xâm phạm an ninh quốc gia thì luật sư có thể tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra [33, Điều 58].  So với BLTTHS năm 1988 thì BLTTHS năm  2003 cho phép người bào chữa tham gia tố tụng sớm hơn (có thể tham gia từ khi có quyết định tạm giữ trong trường hợp bắt người phạm tội quả tang, người đang bị truy nã, bắt người trong trường hợp khẩn cấp). Đây là điểm   mới tiến bộ và quan trọng  của BLTTHS năm 2003 nhằm đảm bảo quyền tự  do, dân chủ của công dân, nâng cao trách nhiệm của cơ quan THTT, người THTT, mở rộng hơn nữa biện pháp bảo đảm thực hiện quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
Luật sư có thể tham gia theo đề nghị của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của họ hoặc tham gia theo yêu cầu của cơ quan THTT. Luật sư có thể bào chữa cho nhiều người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong cùng một vụ án, nếu quyền và lợi ích của họ không đối lập nhau; nhiều luật sư có  thể cùng bào chữa cho một người bị tạm giữ, bị can, bị cáo [33, Điều  56].
 Thực tế cho thấy, các hoạt động tố tụng ban đầu có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc giải quyết vụ án, có ảnh hưởng tới các hoạt động tố tụng sau đó. Về phía luật sư, việc tham gia vụ án sớm giúp luật sư có điều kiện thuận lợi trong việc thu thập chứng cứ gỡ tội hoặc những tình tiết giảm nhẹ TNHS cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, giúp luật sư có những điều kiện pháp lý cần thiết để việc bào chữa đạt được hiệu quả cao. Tham gia tố tụng sớm, luật sư có điều kiện giám sát các hoạt động của ĐTV, hạn chế những sai sót hoặc những vi phạm pháp luật trong việc bắt, giam giữ, bức cung, dùng nhục hình… Khi có sự tham gia của luật sư, người bị tạm giữ, bị can sẽ bình tĩnh hơn, tự tin hơn trong quá trình làm việc với CQĐT. Trên thực tế, trong   các vụ án có oan, sai, vai trò của người bào chữa chưa được khẳng định đúng mức, một phần là do người bào chữa chưa được tham gia đầy đủ ngay từ đầu quá trình tố tụng.
Quyền có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu Điều tra viên đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ, bị can và có mặt trong những hoạt động điều tra khác; xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa [33, Điều  58].
Đây là những quyền  mới của luật sư được BLTTHS năm 2003 bổ  sung thêm so với BLTTHS năm 1988. Việc quy định  như vậy phù hợp với  quy định về thời điểm tham gia tố tụng của luật sư, đồng thời, tạo cho luật sư thực hiện việc giám sát đối với các hoạt động của ĐTV, đặc biệt là giám sát  các nội dung được thể hiện trong các biên bản tố tụng. Qua việc giám sát này, nếu phát hiện thấy có những sai sót hoặc vi phạm trong hoạt động tố tụng của ĐTV, luật sư sẽ thực hiện các thủ tục kiến nghị, khiếu nại cần thiết để hoạt động tố tụng của CQĐT, ĐTV được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật. Để có thể có mặt khi ĐTV lấy lời khai của người bị tạm giữ, hỏi cung bị can, luật sư có quyền "đề nghị Cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm". Trường hợp được ĐTV đồng ý, luật sư có quyền đặt câu hỏi đối với người bị tạm giữ, bị can.
Luật sư có quyền "đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người  giám định, người phiên dịch" trong trường hợp có căn cứ cho rằng họ không khách quan trong khi thực hiện nhiệm vụ. Đây không phải chỉ là quyền của bị can, bị cáo mà còn là quyền của luật sư và luật sư được thực hiện quyền này trong tất cả các giai đoạn của quá trình tố tụng. Trên thực tế, do hạn chế về nhận thức, về trình độ pháp lý và do bị can, bị cáo không có điều kiện tìm hiểu nên họ rất khó khăn trong việc thực hiện quyền yêu cầu thay đổi những người THTT và người tham gia tố tụng. Do vậy, pháp luật quy định luật sư có quyền yêu cầu thay đổi những người này nhằm tạo điều kiện cho luật sư trợ giúp cho bị can, bị cáo thực hiện quyền của mình, đảm bảo sự vô tư, khách quan trong quá trình giải quyết vụ án, đảm bảo cho những quyết định có liên quan đến bị can, bị cáo được ban hành chính xác, công bằng, đúng pháp  luật.
Quyền thu thập tài liệu, đồ vật có liên quan đến việc bào chữa: Để  thực hiện việc bào chữa, luật sư có quyền thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết    liên quan đến việc bào chữa. Luật sư có thể thu thập từ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân tích của những người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân nếu không thuộc bí mật Nhà nước, bí mật công tác. Khi đã thu  thập  được, luật sư có quyền đưa ra các tài liệu, đồ vật, yêu cầu đối với  các CQTHTT [33, Điều 58]. Đây cũng là quy định mới của BLTTHS năm 2003 so với BLTTHS năm 1988. Quyền thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết… có liên quan thực chất là quyền điều tra của luật sư. Để có thể bảo vệ tốt nhất quyền, lợi    ích hợp pháp của bị can, bị cáo, luật sư cần thu thập các tài liệu, chứng cứ cần thiết liên quan thông qua việc tiếp xúc với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của những người này hoặc thu thập từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo… để từ đó đưa ra những lý   lẽ nhằm giúp chứng minh sự vô tội hoặc giảm nhẹ TNHS cho họ, góp phần  xác định sự thật của vụ án. Quy định này cũng thể hiện sự bình đẳng của luật sư đối với KSV trong việc đưa ra các chứng cứ, tài liệu đồ vật trước tòa. Các tài liệu, tình tiết, đồ vật do luật sư thu thập được sẽ giúp họ chuẩn bị tốt luận cứ bào chữa của mình. Trong quá trình tố tụng, khi có căn cứ pháp lý, luật sư đưa ra các yêu cầu tố tụng như yêu cầu thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, yêu cầu trưng cầu giám định, giám định bổ sung, yêu cầu đối chất, tạm đình chỉ, đình chỉ, điều tra lại, điều tra bổ sung… góp phần quan trọng trong việc bảo   vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo, làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án, giúp cho việc giải quyết vụ án được nhanh chóng, chính xác, đúng pháp  luật.
Quyền đọc, ghi chép, sao chụp tài liệu trong hồ sơ: Sau khi kết thúc điều tra, luật sư có quyền đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa [33, Điều 58]. Thông qua việc đọc, ghi chép  và sao chụp tài liệu, luật sư sẽ nắm bắt được đầy đủ, chính xác các tình tiết   của vụ án, các căn cứ buộc tội mà CQĐT và VKS áp dụng đối với bị can, bị cáo để từ đó tìm ra các chứng cứ gỡ tội hoặc giảm nhẹ TNHS cho họ. Đối với những vụ án đơn giản, ít hồ sơ, tài liệu cần đọc hoặc ghi chép thì luật sư có   thể đọc hồ sơ, ghi chép tại chỗ những gì cần thiết, nhưng có những vụ án nghiêm trọng, hồ sơ phức tạp, có nhiều vấn đề cần nghiên cứu thì luật sư không thể đọc và ghi chép hết những gì cần thiết. Do đó, quy định được ghi chép và sao chụp tài liệu cần thiết cho việc bào chữa sẽ tạo điều kiện cho luật sư thu thập tài liệu, tình tiết chuẩn bị cho việc bào chữa của mình, đảm bảo sự bình đẳng giữa bên buộc tội và bên gỡ tội trong tranh tụng.
Quyền gặp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo: Nhằm tạo điều kiện cho luật sư thực hiện tốt chức năng bào chữa của mình, pháp luật cho phép luật sư có quyền gặp người bị tạm giữ, gặp bị can, bị cáo đang bị tạm giam. Đây là quyền rất quan trọng của luật sư. Để thu thập tài liệu, chứng cứ phục vụ việc bào chữa, luật sư không chỉ nghiên cứu, sao chép hồ sơ vụ án đã được các CQTHTT thu thập mà một trong những nguồn chứng cứ đặc biệt quan trọng giúp luật sư bào chữa tốt có từ chính bị can, bị cáo. Bởi, hơn ai hết, chính bị can, bị cáo mới là người biết rõ nhất họ có phải là người đã thực hiện hành vi phạm tội mà các cơ quan THTT đang xem xét, giải quyết hay không, nếu có  thì ở mức nào? Thông qua việc trực tiếp gặp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, luật sư sẽ thu thập các chứng cứ ngoại phạm, các tình tiết giảm nhẹ TNHS cho họ, nắm bắt được các đặc điểm nhân thân, diễn biến tâm lý của người được bào chữa khi họ thực hiện tội phạm hoặc động viên họ khai báo thành khẩn để  nhận được sự khoan hồng của pháp luật. Đồng thời, thông qua việc gặp gỡ,  luật sư sẽ tư vấn cho họ các vấn đề pháp lý có liên quan để từ đó giúp tâm lý của họ vững vàng hơn, yên tâm hơn và họ có thể tự bào chữa cho  mình.
Quyền tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa: Tại phiên tòa, các chức năng buộc tội, gỡ tội và xét xử được thực hiện đồng thời và rõ nét nhất nên  luật sư có quyền tham gia hỏi, tranh luận và có quyền bình đẳng với KSV, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền  lợi,  nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện hợp pháp của họ, người bảo vệ quyền lợi của đương sự trong việc đưa ra các chứng cứ, tài liệu, đồ vật, đưa ra yêu cầu và tranh luận dân chủ trước Tòa án [33, Điều 19, 58]. Khi tham gia hỏi  và tranh luận tại phiên tòa, luật sư góp phần làm sáng tỏ quan điểm của bị cáo đối với việc buộc tội, làm rõ những tình tiết quan trọng chưa được làm rõ   trong những lời khai của bị cáo và trong câu trả lời của bị cáo đối với những câu hỏi của HĐXX và KSV nhằm xác định tính xác thực của các chứng cứ buộc tội cũng như gỡ tội, xác thực sự thật khách quan của vụ án. Tại phiên tòa có sự tham gia của các bên, bao gồm cả bên buộc tội, bên bị hại và những người làm chứng, người có quyền, nghĩa vụ liên quan… nên sẽ thuận lợi hơn rất nhiều để luật sư thực hiện hoạt động điều tra công khai, kiểm tra lại tính  xác thực, tính khách quan, tính liên quan và tính hợp pháp của các chứng cứ   có trong vụ án, trên cơ sở đó giúp Tòa án có những phán quyết chính xác, khách quan, đúng pháp luật, bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của bị cáo. Việc bào chữa của luật sư có đem lại kết quả tốt cho người được bào chữa hay không phụ thuộc nhiều vào việc hỏi và tranh luận của luật sư tại phiên tòa.  Tầm quan trọng của việc tranh luận tại phiên tòa đã được nêu rõ trong Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về "một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới":
Việc xét xử của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả  tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn quy định. Các cơ quan tư pháp có  trách nhiệm tạo điều kiện để luật sư tham gia vào quá trình tố tụng: tham gia hỏi cung bị can, nghiên cứu hồ sơ vụ án, tranh luận dân  chủ tại phiên tòa… [14]. Và, "khi nghị án, chỉ được căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác  tại phiên tòa" [33, Điều 222].
Khi phát hiện những sai sót, vi phạm trong hoạt động tố tụng, luật sư  có quyền "khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng". Trong trường hợp có căn cứ cho rằng bản án, quyết định của Tòa án áp dụng đối với người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần chưa đúng quy định của pháp luật, hoặc có vi phạm nghiêm trọng trong thủ tục tố tụng thì luật sư có quyền kháng cáo bản  án, quyết định đó.
Như vậy, với việc quy định các quyền nêu trên cho luật sư, pháp luật TTHS đã ghi nhận một cách chính thức các đảm bảo để người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa (trong đó bao gồm cả quyền tự bào chữa và quyền nhờ người khác bào chữa) của mình, đồng thời tạo hành lang pháp  lý để luật sư thực hiện tốt các chức năng, nhiệm vụ của mình trong quá trình tham gia bào chữa cho bị can, bị cáo, bảo vệ tốt nhất quyền, lợi ích hợp pháp cho họ, hạn chế sự tùy tiện, lạm quyền của các CQTHTT và người THTT  trong quá trình giải quyết vụ án.
                                  
Giải oan vụ án đá vào chân một cái bị kết tội giết người - 2
- Nghĩa vụ của luật sư - người bào chữa trong tố tụng hình  sự
Bên cạnh việc quy định các quyền của luật sư khi tham gia bào chữa, pháp luật cũng quy định cho họ phải có những nghĩa vụ nhất định. Nghĩa vụ của luật sư khi tham gia bào chữa được quy định tập trung tại Điều 58 BLTTHS. Chức năng chủ yếu của luật sư là bảo vệ các quyền,  lợi  ích hợp pháp của bị cáo, tuy nhiên, trong quá trình thực hiện chức năng đó, luật sư chỉ được phép sử dụng các biện pháp và thực hiện các hoạt động trong khuôn khổ pháp luật cho phép.
Luật sư có nghĩa vụ sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tình tiết xác định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ TNHS của bị can, bị cáo. Tùy theo mỗi giai đoạn tố tụng, khi thu thập được tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án thì luật sư có trách nhiệm giao cho CQĐT, VKS, Tòa án. Quy định này đòi hỏi luật sư phải làm hết sức mình bằng việc sử dụng các biện pháp mà pháp luật cho phép để giúp đỡ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, nhằm hạn chế tình trạng luật sư thiếu    trách nhiệm, không bố trí thời gian nghiên cứu hồ sơ, thu thập chứng cứ hay tham gia phiên tòa để bào chữa cho người bị buộc tội. Trên thực tế, có nhiều luật sư chỉ xem qua hồ sơ, tài liệu rồi bào chữa một cách sơ sài, hời hợt tại phiên tòa khiến kết quả bào chữa không cao.
Nghĩa vụ giúp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm  bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Không phải bất cứ người bị buộc tội nào cũng am hiểu pháp luật, hơn nữa, họ luôn ở trong trạng thái lo sợ kể từ  thời điểm bị khởi tố, giam giữ. Vì vậy, việc giúp đỡ về mặt pháp lý của luật    sư đối với họ là rất quan trọng. Trong suốt quá trình tham gia tố tụng, luật sư phải có nghĩa vụ giúp đỡ về mặt pháp lý đối với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; giáo dục họ tôn trọng pháp luật, giải thích cho họ biết những quyền và lợi ích hợp pháp của họ để họ có thể tự bào chữa và bảo vệ  mình.
Mặc dù bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là  một  hoạt  động nghề nghiệp của luật sư, tuy nhiên, luật sư không được từ chối bào chữa cho những người mà mình đã đảm nhận bào chữa, nếu không có lý do chính đáng. Khi luật sư đã nhận lời bào chữa cho người bị buộc tội thì giữa họ đã hình thành một mối quan hệ mật thiết với nhau, nếu luật sư từ chối bào chữa giữa chừng sẽ ảnh hưởng không chỉ tới quyền  lợi của người bị buộc tội mà còn ảnh hưởng đến tâm lý của họ, có thể ảnh hưởng chung đến tiến độ giải quyết vụ án.
Luật sư có nghĩa vụ tôn trọng sự thật và pháp luật, không được mua chuộc, cưỡng ép hoặc xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật. Khi tham gia tố tụng, luật sư không chỉ có nghĩa vụ bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của thân chủ mà còn có nghĩa vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ pháp chế, trong đó sự thật là không thể chối cãi. Chính vì vậy, luật sư phải tôn trọng sự thật và tôn trọng pháp luật. Luật sư chỉ được sử dụng các biện pháp do pháp luật quy định để thực hiện việc bào chữa, không được bóp méo  sự  thật của vụ án. Luật sư phải tôn trọng và triệt để tuân thủ các quy định của  pháp luật và không được mua chuộc, cưỡng ép hoặc xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật cho các cơ quan THTT. Đó là những hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức nghề nghiệp hành nghề luật sư, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích của toàn xã hội bởi nó sẽ làm sai lệch sự thật khách quan của vụ án, ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Luật sư có nghĩa vụ có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án. Phiên tòa là giai đoạn quan trọng nhất của toàn bộ quá trình tố tụng, ở đó sẽ xác định được bị cáo có tội hay không và TNHS của bị cáo trong trường hợp họ bị tuyên là  có tội. Việc tham gia phiên tòa là quyền nhưng cũng là nghĩa vụ của luật sư: "Người bào chữa có nghĩa vụ tham gia phiên tòa. Người bào chữa có thể gửi trước bản bào chữa cho Tòa án" [33, Điều 190]. Luật sư tham gia phiên tòa không chỉ để sử dụng các chứng cứ, tài liệu thu thập được trong giai đoạn trước đó mà còn để tranh luận nhằm bác bỏ sự buộc tội của đại diện VKS, qua đó luật sư có thể giúp làm rõ được nội dung vụ án, xác định sự thật khách   quan để HĐXX có phán quyết đúng đắn, chính xác. Đây cũng là quy định nhằm đảm bảo quyền bào chữa của bị cáo.
Luật sư không được tiết lộ bí mật điều tra mà mình biết được khi thực hiện việc bào chữa, không được sử dụng tài liệu đã ghi chép, sao chụp trong   hồ sơ vụ án vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân [33, Điều 58]. Do đặc thù nghề nghiệp, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ bào chữa, luật sư có thể biết được nhiều bí mật của Nhà nước, bí mật của bị can, bị cáo hay bí mật khác mà luật sư có thể biết được. Pháp luật quy định họ không được tiết lộ những thông tin bí  mật  này vì nó sẽ ảnh hưởng đến lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, lợi ích của Nhà nước và xã hội. Để thực hiện nhiệm vụ bào chữa, pháp luật cho phép luật sư được đọc, ghi chép, sao chụp tài liệu, thu thập các chứng cứ, đồ vật liên quan đến việc bào chữa nhưng luật sư chỉ được phép sử dụng những thông    tin, tài liệu này cho mục đích bào chữa cho bị can, bị cáo mà không được sử dụng vào mục đích khác làm ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước, quyền và  lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Pháp luật quy định khi tham gia bào chữa cho bị can, bị cáo, luật sư phải triệt để tuân thủ các nghĩa vụ nêu trên, trường hợp luật sư "làm trái pháp luật  thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị thu hồi giấy chứng nhận người bào chữa, xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật" [33, Điều  58].
Theo quy định của BLTTHS năm 2015 thì người bào chữa có nghĩa vụ: Sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tình tiết xác định người bị buộc tội vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo; Giúp người bị buộc tội về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ; Không được từ chối bào chữa cho người bị buộc tội mà mình đã đảm nhận bào chữa nếu không vì lý do bất khả kháng hoặc không phải do trở ngại khách quan; Tôn trọng sự thật; không được mua chuộc, cưỡng ép hoặc xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; Có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án; trường hợp chỉ định người bào chữa theo quy định tại khoản 1 Điều 76 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015 thì phải có mặt theo yêu cầu của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát; Không được tiết lộ bí mật điều tra mà mình biết khi thực hiện bào chữa; không được sử dụng tài liệu đã ghi chép, sao chụp trong hồ sơ vụ án vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân; Không được tiết lộ thông tin về vụ án, về người bị buộc tội mà mình biết khi bào chữa, trừ trường hợp người này đồng ý bằng văn bản và không được sử dụng thông tin đó vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Người bào chữa vi phạm pháp luật thì tùy tính chất, mức độ vi phạm mà bị hủy bỏ việc đăng ký bào chữa, bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại phải bồi thường theo quy định của luật.
 (Còn nữa..)
Theo: Luật sư Đặng Văn Cường - Văn phòng luật sư Chính Pháp - Hà Nội.